Bốc Phệ Cách Ngôn: Các yếu tốt để dự đoán Lục hào P1

Tham gia Khóa Học Kinh Dịch – Lục Hào Dự Trắc Học để có thể dự đoán nhiều việc trong cuộc sống!

ÂM DƯƠNG ĐỘNG TĨNH PHẢN PHÚC THIÊN BIẾN

( Âm dương động tĩnh thay đổi, đổi thay )
Động là hao giao ( tréo ) ký hiệu là x, trùng ký hiệu là o, tĩnh là hào đơn, chiết. Giao và chiết thuộc âm, trùng và đơn thuộc dương. Hào đơn chiết thì an tĩnh, an tĩnh thì chẳng biến hóa, hào giao trùng thì phát động, phát động rồi thì sẽ biến. Như giao-giao-giao vốn là quẻ không thuộc âm vì động mà biến thành. Đơn-đơn-đơn là quẻ càn thuộc dương. Đại phàm vật động sẽ biến, vì sao giao biến đơn, trùng biến chiết, đều do từ y chữ động chữ cực. Người xưa bảo : vật cực tất biến, khí mãn tất huynh, giá như khí trời quá nóng tất sẽ mưa, gió. Quá mưa thì sẽ ngưng, do đó người xưa chú rằng : Lúc giã thành gạo, gạo nấu thành cơm, nếu chưa giã gạo, không nấu cơm tức chưa động thì lúc còn nguyên lúa, mà không động thì không biến. Trong sự phát động có lúc biến tốt, có lục biến xấu, dương cực biến âm, âm cựa biến dương đólà ý động tĩnh âm dương phản phúc thiên biến.

TUY VẠN TƯỢNG CHI PHÂN VÂN TU NHẤT LÝ NHI DUNG QUÁN :

( Tuy ngổn ngang nhiều tượng nhưng chỉ 1 lý là tỏ thông )
Câu này chỉ giảng về chữ lý. Chữ tượng dù có ngổn ngang ra sao lúc giải thích chỉ có 1 lý trung dung. Trong 1 quẻ, hình xung, phục, hợp, động tĩnh, chế hóa, sinh khắc, mà trong đầu chỉ có 1 điều không đổu là cái lý bình luận trung dung đến nơi chốn, thành dù có ngổn ngang quanh co chũng chỉ có 1 lý là thông suốt.

PHU NHÂN HỮU HIỀN, BẤT HIẾU CHI THÙ, QUÁI HỮU CẤP CHI DI. THÁI QUÁ GIẢ TÔN TỨ THÀNH BẤT CẤP GIẢ ÍCH CHI TẮC DẮC.

( Người đời có hiền có hư khác nhau, quẻ có bất cập thái quá khác nhau, thái quá thì bớt sẽ thành, bất cập thì thêm vào sẽ lợi )
Người sinh ra ở đời có hiền, hư khác nhau, quẻ thì khác nhau ở thái quá và bất cập. Người lấy đức trung dung mà đến, quẻ lấy tương-trung hòa làm đẹp. Đức đến trung-dung chẳng có gì chẳng đẹp ( thiện ), tược đến trung hòa thì cầu gì mà không được. Cho nên động tĩnh, sinh khắc, hợp xung, không phá, mộ, suy, vượng , tuyệt , trong quẻ đều có lý thái quá, bất cập. Phàm lý trong quẻ chỉ luận được đạo trung hòa. Giả loạn động cần tìm tĩnh hào, an tĩnh cần gặp ngày xung, nguyệt phá cần xuất phá, điền hợp. TUần thì lục xuất tuần; động thì đợi hợp, tĩnh thì đợi xung; Đó là những phép thái quá cần bớt để thành, bất cập cần thêm để lợi ích. Ngày xưa chú dụng thần hiện hiều là thái quá, dụng thần chỉ hiện 1 chỗ không vượng, không được mùa, vô khí là bất cập, thí ý đó là quá cạn mà không biết trong quẻ có thái quá, bất cập, động tĩnh, sinh khắc, hợp xung, nguyệt phá, tuần không, vượng tướng, suy, mộ, tuyệt, phục tàng, xuất hiện, mỗi loại đều có thái quá, bất cập. Đấy là tự bên trong có vẻ huyền diệu, linh động, học giả nên tham gia ý kiến.

SINH PHÙ CỦNG LỢI HỢP THỜI VŨ ……….

( Sinh phù củng hợp như mưa đúng lúc làm nẩy mầm ).
Khắc tức tương khắc, giống như kim khắc mộc chẳng hạn, hại như lục hại tức tị hại mùi, sửu hại ngọ, dần hại tỵ, mão hại thìn, dậu hại tuất vậy, hình tức là dần tỵ, thân chẳng hạn. Xung như tý ngọ tương xứng.
Câu này cũng dựa theo câu trước mà nói dụng thần suy nhược không có sinh phù cũng hợp mà ngược lại bị hại khắc hình xung cho nên ví như sương mùa thu giết cỏ. Đại phàm trong quẻ có 3 điều hình, xing, khắc thường nghiệm, không nên biện luận.

TRƯỜNG SINH, ĐẾ VƯỢNG TRANH NHƯ KIM CỐC CHI VIỆN:
Trường sinh giống như hỏa trường sinh ở dần, đế vượng như hỏa có địa vượng ở ngọ. Dụng thần nếu gặp thì suy nhược cũng gọi là có khí, nên ví như kim cốc. Câu này luận về dụng thần có trường sinh, đế vượng tại nhật thần, không nói trường sinh, đế vượng ở biến hào. Nếu bảo biến hào nói đế vượng là lầm. Giảo như ngọ hỏa hóa ngọ là phục ngâm có gì là tốt mà ví như kim cốc. Đại phàm dụng thần có đế vượng ở nhật thần chủ nhanh, trường sinh ở nhật thần chủ chậm. Trường sinh giống như người mới nuôi lớn dần lục mới sinh. Đế vượng thì giống như người đã trưởng thành mạnh mẽ mà luận, nên trường sinh chậm, đế vượng nhanh.

TỬ, MỘ, TUYỆT, KHÔNG NHƯNG THI NÊ LƯU CHI ĐỊA :
( Tử, mộ, tuyệt không là đất địa ngục )
Tử, mộ, tuyệt đều theo trường sinh mà khởi, không là tuần không.
Tử là chết, giống như người bệnh mà chết. Mộ là che lấp, giống như chết chôn ở mộ. Tuyệt là áp tuyệt giống như chết mà gốc rễ dứt hết. Không là hư không nơi vực sâu, băng gía, người ta không thể đặt chân đến. Nãi lê là tên địa ngục ý nói là hung vậy.
Bốn điều trên cùng với khắc hại hình xung cũng có ý tưởng phỏng theo ý bất cập, thái quá. Nếu dụng thần không được sinh phù cũng hợp mà ngược lại gặp tử, mộ, tuyệt , không nên ví dụ là nãi lê. Đại phàm trong quẻ hào tượng chỉ dùng được tràng sinh, mộ, tuyệt, rồi dựa vào nhật thần, coi hào biến, nếu hóa xuất thì lại dùng khắc, xung, hợp tiến thoái thần, phản ngâm, phục ngâm mà luận.

NHẬT THÂN VI LỤC HÀO CHI CHỦ TỂ, HỈ LÝ DIỆT VONG DĨ AN CỬU
( Nhật thần là chúa tể của sáu hào gặp thời diệt Hạng Vũ để họ Lưu an nghiệp )
Nhật thần là chủ trong Bốc phệ, không xem nhật thần tức không định cát hung nặng nhẹ trong quẻ. Vả lại nhật thần có thể xung khởi, xung thực, xung tán. Hào tượng là không tĩnh, vượng có thể nhờ đó mà hợp, điềm lấp, hào nào nguyệt phá suy nhược có thể nhờ đó để được phù trợ, giúp đỡ. Gặp cường vượng nhật thần có thể chế phục, gặp phát động cũng có thể chế, gặp phục tùng có thể đề bạt, có thể thành việc, có thể hư việc cho nên nhật thần là chúa tể của sáu hào.
Như kỵ thần vọng động, dụng thần hư tù, nếu được nhật thần khắc chế kỵ thần này để sinh phù cho dụng thần thì mọi việc chuyển hung thành cát, nên ví như diệt Hạng an Lưu.

NGUYỆT KIẾN NÃI VẠN QUÁI CHI ĐỂ CƯƠNG KHỞI KHẢ TRỢ KIỆT NHI VI NGƯỢC
( Nguyệt kiến là giềng mối của vạn quẻ há đi giúp Kiệt làm bạo ngược sao )
Nguyệt kiến là cương lĩnh của bốc-phệ, có thể cứu việc, phá việc cho nên bảo là đề cương của vạn quẻ.
Nếu trong quẻ có kỵ thần phát động, khắc thương dụng thần, nếu được nguyệt kiến sinh phù kỵ thần là giúp Kiệt làm càng.
Nếu lỵ thần khắc dụng thần như gặo nguyệt kiến khắc chế kỵ thần sinh phù dụng thần đấy là cứu việc.
Phàm xem nguyệt kiến sinh khắc cũng giống như nhật thần, họa phúc do nguyệt kiến chỉ nội trong tháng, chẳng ảnh hưởng từ đầu đến cuối của mọi việc, mà nhật thần thì chẳng luận lâu dài, thành ra có ảnh hưởng là tràng sinh, mộc dục quan đới, mười hai thần này với nhật thần vốn có quan hệ, với nguyệt kiến trên chẳng qua chỉ dựa vào để luận nguyệt phá, hưu tù, vượng tướng, sinh, khắc. Nay có người bảo suy, bệnh, tử, mộ tại nguyệt kiến là không tốt, tràng sinh, đế vượng tại nguyệt kiến là tốt, cái đó truyền lại lầm lẫn chẳng đáng tin được.

TỐI ÁC GIẢ TUẾ QUÂN, NGHI TÌNH BẤT NGHI ĐỘNG :
( Hết sức ác Tuế quân nên tĩnh chẳng nên động )
Tức thái tuế của năm gọi là tuết quân, tượng thiên tử.
Đã là tối ác há không tối thiện sao. Đã là an tĩnh há không nên phát động sao, nếu thái tuế lâm hào phát động khắc, xung thế, thân, dụng, tượng chủ tai ách không lợi trong năm đó, thượng gặp nhiều lộn xộn cho nên gọi là tối ác thì nên an tĩnh. Câu này bảo nếutuế quân lâm kỵ thần thì nên tĩnh không nên động.
nếu thái tuế ở hào động thì sinh hợp thế thân tương chủ địa vị trong một năm gia tăng hỉ khánh, cho nên cũng bảo là tối thiện thì nên phát động.
Nếu dụng thần lâm đấy thì việc liên quan đến triều đình, nếu nhật thần động hào xung tất phạm thượng. Mỗi khi luận việc công tư đều nên thận trọng.

 

TỐI YẾU GIẢ THÂN VỊ, HỈ PHÙ BẾT HỈ THƯƠNG :
( Quan trọng nhất là thân vị, thích phù không thích bị thương )
Thân tức là nguyệt quái thân vậy. Nếu thế dương tứ ckhởi từ tháng tí, thế âm tức khởi từ tháng ngọ, đó là phép an thân. Sau khi quẻ đã lập xong, xem quái thân hiện hay không và với nhật thần, nguyệt kiến, động hào có can thiệp hay không thì biết được cát hung. Bói việc thì đó là sự thể, bói người thì đó là nhân thân chỉ mừng có sinh phù, củng, hợp không nên khắc, hại, hình xung. Phàm xem quẻ, lấy quái thân làm chủ việc xem cho nên gọi tối yếu vậy

 

THẾ VI KỶ, ỨNG VI NHÂN ĐẠI NGHI KHÍ HỢP ĐỘNG VI THỦY, BIẾN VI CHUNG TỐI PHA GIAO TRANH
( Thế là ta, ứnglà người nên rất hợp; Động là đầu, biến là cuối nên rất sợ giao tranh )
Giao trùng là động, động tất âm biến dương, dương biến âm. Trong quẻ gặp vậy thì dùng động hào làm khởi dầu việc, biến hào làm cuối việc, hào phát động biến xung biến khắc là giao tranh. Phàm thế ứng nên sinh hợp, dụng thần sơ biến khắc xung.

 

ỨNG VỊ TAO THƯƠNG BẤT LỢI THA NHÂN CHI SỰ
THẾ HÀO THỤ CHẾ KHỞI NGHI TỬ KỶ CHI MƯU
( Ứng vị bị thương không lợi việc cho kẻ khác Thế hào bị chế hà nên tự mưu sư ư )
Vị trí của ứng cũng dựa vào dụng thần để giải rõ. Xem cho người phải phân rõ dụng thần, với người giao thiệp sơ và không định rõ thứ bậc thì dùng ứng chỉ người khác, nêu xem cho cha mẹ bạn, gia chủ, thầy, thì dùng hào phụ-mẫu làm dụng thần, bạn bè của con cháu thì dùng hào tử-tôn là dụng thần, bạn bè của cha, của con cháu , tuy là người khác không thể lấy chung vị trí của ứng mà phải phân biệt già trẻ, xưng hô danh phận, để đoán khỏi lầm.
Như bói xem lợi hại cho mình lấy thế làm dụng thần, thế hào bị thụ chế há mình dám mưu sự sao ?

Nguyễn Việt Kiên
Follow me
Latest posts by Nguyễn Việt Kiên (see all)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*