
Tham gia Khóa Học Kinh Dịch – Lục Hào Dự Trắc Học để có thể dự đoán nhiều việc trong cuộc sống!
Ở phương Đông thì Dương (3) ở trong, Âm (8) ở ngoài, Dương làm chủ nên khí hậu ấm áp (mùa Xuân). Ở phương Tây thì Âm (4) ở trong, Dương (9) ở ngoài, Âm làm chủ nên khí hậu mát mẻ (mùa Thu)
Ở phương Đông thì Dương chủ (trong) Âm Khách (ngoài), Dương trầm (dưới) Âm phù (trên) nên thông thuận, tượng trưng cho quẻ Thái ở hướng Đông Bắc. Ở phương Tây thì Âm chủ (trong) và Dương khách (ngoài), Âm trầm (dưới) Dương phù (trên) nên bế tắc, tượng trưng cho Quẻ Bỉ hướng Tây Nam
Số 1, 2, 3, 4 theo thứ tự thì tương ứng với Tứ Tượng: Thiếu Dương 1 (Dương mới sinh), Thiếu Âm 2 (Âm mới sinh), Thái Dương 3 (Dương lớn), Thái Âm 4 (Âm lớn). Số 5 thì tương ứng với Âm trung hữu Dương căn (vì 1 + 4 = 5 hay Thiếu Dương + Thái Âm ) hoặc Dương trung hữu Âm căn (vì 2 + 3 = 5 hay Thiếu Âm + Thái Dương). Do đó số 5 được coi là số Thái Cực, của Trời Đất, chỉ về phần Dương, bao gồm hết Tứ Tượng, hết các số Sinh 1, 2, 3, 4. Số 5 là số rất quan trọng vì số này kết hợp với các số Sinh khác (1, 2, 3, 4) mà bao trùm chuyển tiếp các số Thành (6, 7, 8, 9) ở vòng ngoài (ví dụ 6 do 1 + 5, 7 do 2 + 5), không có số 5 ở giữa thì không có cái gì trong Vũ Trụ này cả. Số Thành 6, 7, 8, 9, 10 không những là số do số 5 chuyển tiếp mà ra mà cũng lại là do các số sinh giao hợp mà thành (ví dụ số 6 do 1 + 5, 2 + 4, 3 + 3, 1 + 2 + 3).
Số 6, 7, 8, 9 cũng có Tứ Tượng, theo thứ tự tương ứng với Lão Âm 6 (Âm già), Suy Dương 7, Suy Âm 8, Lão Dương 9 (Dương Già). Số 10 là số Thái Cực, của Trời Đất, chỉ về phần Âm, đặt ở giữa, bao lấy số Dương 5. Ta lấy số Thành Âm lớn nhất (số 10) so với số Sinh Dương nhỏ nhất (số 1) ta có số 9 (10 – 1). Số 9 là số Dương lớn nhất và có ngậm Âm (số 10) nên gọi là Lão Dương. Lấy số Thành Âm lớn nhất (số 10) so sánh số Sinh Dương kế tiếp (số 3) ta có số 7 (10 – 3). Số 7 là số Dương đứng liền với số 9 Lão Dương nên gọi là Suy Dương (Dương đi theo chiều thuận từ 7 đến 9. Lấy số Thành Âm lớn nhất mà so sánh với số Sinh Âm lớn nhất (số 4) ta có số 6 (10 – 4). Số 6 có là do Âm lớn nên ta gọi là Lão Âm. So sánh với số Sinh Âm kế tiếp (số 2) ta có số 8 (10 – 2). Số 8 có số Sinh Âm nhỏ nên gọi là Suy Âm (Âm đi theo chiều nghịch từ 8 đến 6) (Có người chỉ căn cứ vào vòng Số Thành mà cho rằng số Dương đi theo chiều lớn dần là chiều thuận, bắt đầu từ 5 lên 7 và cùng cực ở 9 nên 9 là số Lão Dương, còn số Âm đi theo chiều nghịch là chiều nhỏ dần, bắt đầu từ 10 xuống 8 và cùng cực ở 6 nên số 6 là Lão Âm)
Số 1 là Thiếu Dương, Dương mới sinh, là số khởi đầu của việc tạo lập các số khác, khởi đầu công cuộc tạo lập Vũ Trụ vạn vật (bởi vì số 2 tạo ra do 1 + 1, số 3 do 1 + 2, số 4 do 1 + 3… Từ số 1 ta tạo ra số 2 rồi lần lượt số 3, số 4 và tất cả các số khác).
Số 2 là Thiếu Âm, Âm mới sinh, là số tạo ra các số Âm khác (bởi vì số 4 tạo ra do 2 + 2, số 6 do 2 + 4…), và Âm cộng Dương mới thành Dương (bởi vì 3 do 2 + 1, số 5 do 2 + 3, số 7 do 2 + 5…)
Số 3 là Thái Dương, Dương đã lớn, đã có mầm Âm, do Thiếu Dương 1 và Thiếu Âm 2 cộng lại. Dương cộng Dương mới thành Âm (bởi vì số 4 do 3 + 1, số 6 do 3 + 3, số 8 do 3 + 5…) (Chú ý số Dương có đặc điểm là có khả năng sinh ra cả số Dương lẫn số Âm nếu cộng hay các số Dương với nhau, còn nếu ta cộng số Âm với nhau thì chỉ được số Âm lớn hơn nên người ta nói Dương Sinh Âm Trưởng, nghĩa là Dương có khả năng sinh ra, còn Âm có khả năng nuôi lớn lên)
Số 1 là số khởi đầu của việc tạo lập các số khác được coi là số Trời (Dương), số 2 là số tạo ra các số Âm khác được coi là Đất (Âm), và số 3 (do 1 + 2) là số Thái Cực phân Âm Dương: Tả Cơ, Hữu Ngẫu (trái lẻ, phải chẵn). Số 3 có thể lìa nhau được thì gọi là Tam, không lìa nhau được thì gọi là Tham. Số 2 có thể lìa nhau được thì gọi là Nhị, không lìa nhau được thì gọi là Lưỡng. Trong các số Sinh thì Dương có 3 số (1, 3, 5) được gọi là Tham Thiên, Âm có 2 Số (2 và 4) được gọi là Lưỡng Đia. Số 3 là Số Căn của Dương, số 2 là Số Căn của Âm nên gọi là Tham Thiên Lưỡng Địa. Số 5 là số của Trời, chia ra thì được 3 và 2 nên cũng gọi là Tham Thiên Lưỡng Địa.
Số 4 là Thái Âm, Âm lớn, do do hai Thiếu Âm cộng lại (2 + 2) hoặc do Thiếu Dương (1) và Thái Dương (3) cộng lại mà ra. Cực Dương thì biến thành Âm (bởi vì 4 do 3 + 1) còn cực Âm thì vẫn là Âm (bởi vì 4 + 2 là 6, vẫn là Âm), không biến nên ta nói Dương thì động mà Âm thì Tịnh.
Khi Âm Dương sinh hành Khí thì nước (Thủy) có trước nhất nên Thủy được mang số 1
Có nước rồi thì cần hơi nóng (Hỏa) thì vạn vật mới sinh nên Hỏa mang số 2
Có nước và hơi nóng thì thảo mộc (Mộc) mới sinh ra nên Mộc mang số 3
Tiếp đến Kim khí hình thành nên Kim mang số 4
Vạn vật sinh hóa từ đất (Thổ) mà ra và cuối cũng trở về đất nên Thổ mang số 5.
Ngũ hành là khí do Âm Dương tác hóa nên cũng sinh hóa không ngừng. Năm hành trên tương tác với nhau như sau:
Ngũ hành tương sinh: Thổ sinh Kim, Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ.
Ngũ hành tương khắc: Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim, Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ.
Đồng hành thì Tỵ hòa
Đối với một hành thì luôn luôn tồn tại hai mối quan hệ sinh khắc gắn liền với hành đó. Về sinh thì hành đó phải được sinh bởi một hành khác và đồng thời cũng sinh ra một hành khác. Về khắc thì hành đó phải bị khắc bởi một hành khác và đồng thời cũng khắc một hành khác. Chính mối quan hệ như vậy giữa các hành khiến không một hành nào phát triển hơn hành nào. Nếu ta viết quan hệ tương sinh giữa các hành trên một vòng tròn khép kín thì hai hành sẽ tương khắc với nhau khi cách nhau một hành.
- Minh Đường Trong Phong Thủy - May 2, 2024
- Thập Thần Bát Tự Xem Tính Cách - April 13, 2024
- Thập Thần Bát Tự Quá Vượng - April 11, 2024
Leave a Reply