Dịch Học Khái Quát: Ngũ hành của Hậu Thiên Bát Quái

Tham gia Khóa Học Kinh Dịch – Lục Hào Dự Trắc Học để có thể dự đoán nhiều việc trong cuộc sống!

Ở Tiên Thiên hào quái là Tượng của Âm Dương tự nhiên từ đó tạo ra hành khí chứ không mang sẵn hành khí, còn Ngũ hành của Hậu Thiên Bát quái do con người xếp đặt ra theo thực tế môi trường xung quanh và cũng phù hợp với hành tự nhiên giống như Hà Đồ:
Khảm là nước nên mang hành Thủy, đặt ở Phương Bắc, mùa Đông, nửa đêm, khí hậu lạnh

Li là lửa nên mang hành Hỏa, đặt ở Phương Nam, mùa Hạ, giữa trưa, khí hậu nóng
CànĐoài ở Phương Tây, có nhiều núi non hầm mỏ kim khí nên thuộc Kim
ChấnTốn ở Phương Đông, vùng giáp biển cả, cây cỏ xanh tốt nên thuộc Mộc
Cấn ở Đông Bắc và Khôn ở Tây Nam là hai nơi có nhiều cao nguyên và núi lớn, đều là đất nên thuộc Thổ

Ở Hậu Thiên người xưa chia Thổ làm hai là Cấn Thổ và Khôn Thổ rồi đưa Thổ ở Trung Cung ra hai hướng khác nhau: Cấn Thổ ra Đông Bắc, Khôn Thổ ra Tây Nam và để Thổ có thể điều chỉnh cuộc vận hành sinh khắc của các hành Kim, Hỏa, Mộc, Thủy. Cấn Thổ ở Đông Bắc dùng để điều lí Thủy Mộc tương sinh, Khôn Thổ ở Tây Nam dùng để điều lí Hỏa Kim tương khắc. Do đó đang tương sinh (Thủy sinh Mộc) mà trở nên tương khắc (Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy), đang tương khắc (Hỏa khắc Kim) mà trở nên tương sinh (Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim) là do vai trò của Thổ. Phương vị của Bát Quái đã được bố trí lại cho phù hợp với phương hướng và thời tiết. Về tứ thời thì Mộc chủ mùa Xuân, Mộc sinh Hỏa nên Xuân chuyển sang Hạ. Hỏa chủ mùa Hạ lại sinh Thổ, Thổ vượng Tứ Quí và ở trung tâm. Hạ tiến sang giai đoạn Trưởng Hạ, Thổ lại sinh Kim nên mùa Hạ chuyển sang mùa Thu. Kim lại sinh Thủy nên Thu chuyển sang Đông. Thủy lại sinh Mộc nên Đông chuyển sang Xuân. Về mặt thời tiết thì Thổ vượng tứ quí nên tháng 6 là tháng trung độ giữa Hạ sang Thu nên dùng Thổ trung gian giữa Hỏa và Kim, còn tháng 12 là tháng trung độ chuyển tiếp giữa Đông sang Xuân nên dùng Thổ trung gian giữa Thủy và Mộc

lac thu va hau thien bat quai

Nói rõ hơn:
Càn thuộc Kim đới Thủy vì gần Khảm
Khảm thuộc Thủy đới Thổ vì gần Cấn
Cấn thuộc Thổ đới Mộc vì gần Chấn
Chấn thuộc Mộc đới Hỏa vì gần Li
Li thuộc Hỏa đới Thổ vì gần Khôn
Khôn thuộc Thổ đới Kim vì gần Đoài
Đoài thuộc Kim

Riêng hành Thổ của Cấn Khôn thì xuyên qua hành Thổ ở Trung Cung của Hà Đồ lại có tác dụng làm thay đổi sự sinh khắc giữa Thủy Mộc và Kim Hỏa: đặt Khôn Thổ giữa Li Hỏa và Đoài Kim làm cho hai hành này đang tương khắc (Hỏa khắc Kim) lại thành tương sinh (Hỏa Li sinh Thổ Khôn, Thổ Khôn sinh Kim Đoài). Đặt Cấn Thổ vào giữa Khảm Thủy và Chấn Mộc làm cho hai hành nay đang tương sinh (Thủy sinh Mộc) lại thành ra tương khắc (Mộc Chấn khắc Thổ Cấn, Thổ Cấn khắc Thủy Khảm). Ở Hậu Thiên Bát Quái thì Khôn Cấn nguyên là Thổ, đối mặt nhau ở Tây Nam Đông Bắc, xuyên qua trung tâm Thổ để điều hòa sự sinh khắc giữa Hỏa Kim và Thủy Mộc của Li Đoài, Khảm Chấn. Ở Hà Đồ thì Thổ ở Trung Cung yểm trợ cho các hành khác. Thổ đóng vai trò quan trọng là như vậy.

Chú ý có sách cho rằng Càn (Dương) là Dương Kim, Đoài (Âm) là Âm Kim, Khôn (Âm) là Âm Thổ, Cấn (Dương) là Dương Thổ, Chấn (Dương) là Dương Mộc, Tốn (Âm) là Âm Mộc
Tám quẻ Hậu Thiên mang các số cung của Lạc Thư như sau:
Nhất Khảm, nhị Khôn, tam Chấn, tứ Tốn, ngũ Trung, lục Càn, thất Đoài, bát Cấn, cửu Li cung (Khảm cung 1, Khôn cung 2, Chấn cung 3, Tốn cung 4, Trung Ương cung 5, Càn cung 6, Đoài cung 7, Cấn cung 8, Li cung 9)

Nguyễn Việt Kiên
Follow me
Latest posts by Nguyễn Việt Kiên (see all)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*