THIÊN TRẠCH LÝ – PHƯỢNG MINH KỲ SƠN

Thiên Trạch Lý

Quẻ Thiên Trạch Lý là quẻ thứ mười trong 64 Quẻ Kinh Dịch.

Quẻ được tạo nên từ Quái CànQuái Đoài mà thành.

Thiên Trạch Lý

Lời triệu: PHƯỢNG MINH KỲ SƠN

NGUYÊN VĂN CỦA QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ

Lý 。Lý Hổ vĩ, không cắn người, Hanh。
Tượng viết: Thượng Thiên Hạ Trạch, Lý。 Quân Tử dĩ biện thượng hạ, định dân chí。

VĂN BẠCH THOẠI GIẢI THÍCH VỀ QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ

Quẻ Thiên Trạch Lý: dẫm lên đuôi hổ, Lão hổ không cắn người, cát lợi。
《Tượng từ》 nói: Quẻ này Thượng Quái là Càn, là Thiên, Hạ Quái là Đoài, là Trạch, Thượng Thiên Hạ Trạch, tôn ty phân biệt rõ ràng, đây là quái tượng của quẻ Thiên Trạch Lý。 Quân Tử xem quái tượng này, cho nên phân biệt tôn ty trên dưới, khiến nhân dân tuân theo quy định, giữ an toàn cho bản thân。

《ĐOÁN DICH THIÊN CƠ》GIẢI THÍCH QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ

Quẻ Thiên Trạch Lý Càn Thượng Đoài Hạ, là Cung Cấn Quẻ Ngũ Thế。 Lý là ý của thực thi, còn ngụ ý là lễ, nhắc nhở người chiêm bói phải cẩn trọng dè chừng, tôn trọng lễ tiết, dạng này mới hữu kinh vô hiểm。

Quẻ Thiên Trạch Lý có lời triệu là Phượng Minh Kỳ Sơn

BẮC TỐNG DỊCH HỌC THIỆU UNG GIẢI THÍCH QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ

Đi lại bất an, khó khăn nguy hiểm; khiêm tốn tự trọng, tôn kính đương sự。
Người được quẻ này, thời kỳ khó khăn, nhiều gập ghềnh bất thuận, vạn sự không được cấp tiến, phải tuần tự từng bước, cẩn thận hành sự。

ĐÀI LOAN QUỐC HỌC NHÀ THÔNG THÁI (VỀ NHO GIÁO) PHÓ BỘI VINH

GIẢI THÍCH

Thời vận: theo thứ tự thăng tiến, không được leo lên。
Tài vận: lưu ý hàng hóa rõ ràng, chờ thời mà bán。
Gia trạch: môn đình nghiêm chỉnh。
Thân thể: khơi thông khí huyết。

GIẢI QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ THEO TRUYỀN THỐNG

Quẻ này là Dị Quái (Hạ Đoài Thượng Càn) trùng điệp, Càn là Thiên, Đoài là Trạch, lấy Thiên ví với Vua, lấy Trạch ví với Dân, nguyên văn: “Lý (giẫm) đuôi hổ, không cắn người”。 Vì vậy, kết quả cát lợi。 Quân trên Dân dưới, mỗi người có vị trí của mình。 Đoài nhu gặp Càn cương, nơi Lý nguy。 Lý ý là thực tiễn, quẻ nghĩa ý tứ hướng lên tiến thủ là làm đến nơi đến chốn。
Đại tượng: nhu nhược gặp cứng rắn, tượng muốn làm lại khó làm, khó còn nguy vậy。
Vận thế: trước vất vả mà sau an nhàn, ban đầu kinh sợ mà sau an toàn, trăm sự không được cấp tiến, phải cư xử dĩ hòa, hữu kinh vô hiểm。
Sự nghiệp: ban đầu rất không thuận lợi, bị đến đủ loại uy hiếp, nếu có thể đề cao cảnh giác, cẩn thận tỉ mỉ, làm đến nơi đến chốn, từng cái mà đi khắc phục khó khăn, quyết tâm không cải biến bản thân, nhất định có thể đạt đến mục đích。 Làm việc phải hiểu rõ bản thân, nhất thiết phải lượng sức mà làm, không thể không quan tâm thực tế, càng là không được cậy mạnh, nôn nóng cầu kết quả。
Kinh Thương: phù hợp chờ xem động tĩnh, chớ vì lợi nhỏ mà dao động kế hoạch bản thân, càng là không được lòng tham không đáy, tuân theo đạo đức thương nghiệp, hiểu rõ tin tức toàn diện。
Cầu danh: nhất thiết phải có bền lòng, chăm chỉ để cầu, không vì tài phú cám dỗ, không vì thế tục quấy nhiễu, kiên trì chí hướng và lý tưởng bản thân, có thể đạt được thành công。
Tình yêu và hôn nhân: song phương sống thanh bần đạo hạnh, có thể hòa thuận chung sống, nếu một phương là phú quý đả động, sẽ phát sinh hôn biến。
Quyết sách: mọi việc tất phải chú ý thận trọng, tình huống bất lợi thường xuyên sẽ xuất hiện, nhưng nếu có thể xử lý được tốt, thường sẽ là hữu kinh vô hiểm, biến nguy thành an。 Vì vậy, làm việc tất phải nghiêm nghiêm túc túc, tuân theo chính đạo, khiêm tốn lắng nghe kiến nghị của người khác, lượng sức mà làm, xin đừng tự phụ cậy mạnh, nhất định sẽ có kết quả tốt。

HÀM NGHĨA TRIẾT HỌC CỦA QUẺ THỨ MƯỜI

Quẻ Thiên Trạch Lý, quẻ này là Dị Quái trùng điệp, Hạ Quái là Đoài, Thượng Quái là Càn。 Càn là Thiên; Đoài là Trạch, lấy Thiên ví với Vua, lấy Trạch ví với Dân。 Quân thượng Dân hạ, mỗi người có vị trí của mình。
Từ trên quái tượng xem, quẻ Thiên Trạch Lý là Đoài Hạ Càn Thượng。 Càn cương kiện, tài đức vô cùng, đây chính là Đoài nơi không thể đạt đến đó。
Từ hình quẻ chúng ta còn có thể xem ra, Càn là Thiên ở trên, Đoài là Trạch ở dưới, đây ý vị theo Trời đang hạ mưa, Đất thì đem nước mưa gom góp làm Sông。 Đây là thuận theo tự nhiên、 hợp với sự vật tồn tại và quy luật phát triển đó。 Vì vậy tại trong học tập và thực tiễn, còn phải tuân theo quy luật tự nhiên。
Quẻ Thiên Trạch Lý là Đoài Hạ Càn Thượng, truyền thống gọi là Thiên Trạch Lý。Hình Quẻ của một quẻ này, đúng lúc cùng “Tiểu Súc ” trên dưới tương phản。 Lẫn nhau là tương đối với quẻ,một dừng một tiến giao hỗ là dùng。 《Tự Quái Truyện》 nói: “vật súc tiếp đó có lễ, nên gọi là Lý。 Lý giả, lễ dã。” đây là nói, vật tư sau khi súc tích, tựu phải chế định lễ tiết, đem “Lý ” giải thích là “lễ ”。 “lễ ” cùng “Lý ” đồng âm, “lễ ” tất phải người đến thực thi, vì vậy dạng này giải thích。
Tại trong Kinh Dịch, một quẻ Lý này ý tứ chủ yếu là dẫm chân、 thực thi。 《Tạp Quái》 nói: “Lý, bất xứ dã。” Lý là tiến lên phía trước mà không dừng lại。 Trong 《Thuyết Văn》 chỉ ra: “Lý, đủ nơi dựa vào。” Lý là giầy đi trên bàn chân。 Tổng hợp bên trên, bản nghĩa của Lý là giầy, mở rộng là dẫm chân, bước tiến, lễ tiết。 Cổ nhân nhận thấy, hành động của người phải bị đến tiết chế của lễ, không vậy tựu sẽ loạn, nên Lý có ý tứ nên thế nào hành động, đây tựu là lễ。
Quẻ Lý cùng Quẻ Phong Thiên Tiểu Súc lẫn nhau là Quẻ Tổng, Quái Hào của hai quẻ này kết cấu đều là Nhất Âm đối với Ngũ Dương, nhưng mà Lục Tứ của Quẻ Tiểu Súc lấy Âm cư Âm, đương vị đắc chính, nhu thuận lợi trinh, tình thế  có thể ngừng lại thế lực đang tiến lên mạnh mẽ, mà Lục Tam của quẻ Lý lấy Âm cư Dương, thân thể cũng mang theo một tính cương trên sự thực, do đó mà trạng thái hình thành tựu không là giống như Quẻ Tiểu Súc dạng đó lấy dẻo dai chứa đựng cứng rắn, mà là lấy nhu gặp nhu rồi。
Quẻ Lý là tượng của trí tuệ, có nón lá, thành lập nghĩa; văn thư phá, tổn nghĩa; nữ tử chính là tốt, có dù (ô) phần nào che đậy; trác kỳbên cạnh nơi quan nhân ngồi, cờ treo cổng; trên vọng gác có chữ Thiên Lý, hầu bá tọa trấn ngàn dặm。

BỐ CỤC LỤC HÀO CỦA QUẺ THIÊN TRẠCH LÝ

NHÂM TUẤT………………………………………Huynh – Đệ
NHÂM THÂN………………Thế………………..Tử – Tôn………………….Phục Thê- TÝ
NHÂM NGỌ……………………………………….Phụ – Mẫu
ĐINH SỬU…………………………………………Huynh – Đệ
ĐINH MÃO………………….Ứng……………….Quan – Quỷ
ĐINH TỴ……………………………………………Phụ – Mẫu
Lý là lễ, lý là hai nghĩa : Giày đạp bằng chân, cái ngày đi đỡ dưới chân. Hai nghĩa kết lại bằng lý là lễ. Ý rộng gặp họa không hại đến mình. Lý là lễ nghĩa, là tất cả phải có trật tự.

NHÓM QUẺ THUỘC CẤN

Nội dung được chuyển thể từ sách mạng Trung Quốc, do Nguyễn Việt Kiên biên dịch.

Nguyễn Việt Kiên
Follow me
Latest posts by Nguyễn Việt Kiên (see all)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*