Tìm hiểu về 12 Địa Chi

Tài liệu được biên soạn bởi Thầy Nguyễn Việt Kiên!

12 Địa Chi Là Gì?

12 Địa Chi là văn tự có từ thời đại cổ xưa, người Trung Hoa đã dùng văn tự này để tạo nên lịch pháp, ký hiệu, tính toán và nhiều công dụng khác.

12 Địa Chi bao gồm: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Tìm Hiểu Nguồn Gốc 12 Địa Chi

Ngũ hànhThiên Can phối hợp, đã bao hàm điều này rất nhiều, lại xuống đến phối hợp Địa Chi, liền còn khác nhau rồi。 Địa Chi có mười hai cái: Tý、 Sửu、 Dần、 Mão、 Thìn、 Tị、 Ngọ、 Mùi、 Thân、 Dậu、 Tuất、 Hợi。 Địa Chi có người viết là“Địa Kỹ”, biểu thị phân hựu của Can, kỳ thực tựu là “Chi”, Chi của Chi trì (chống đỡ, gắng sức)。 Tác dụng của bản thân Trái đất, cũng tựu là trong Thái Dương hệ, Mặt Trăng và Trái đất phát sinh tác dụng, quan hệ tác dụng của tiết khí, mặt sau lại tường thuật。

Trước tiên tại ở đây giới thiệu, Trung Quốc y học cổ đại có hai phái lớn, tại trên đạo của dưỡng sinh, một phái chú trọng Tràng vị, một phái chú trọng Thận。 Hết thảy bệnh, đại bộ phận từ tràng vị đến, bất quá kinh nghiệm của tôi, bác sĩ của phương Nam chú trọng Vị, người có tuổi tác lớn càng là phải chú trọng tràng vị, bác sĩ của phương Bắc chú trọng Thận。 Người trẻ tuổi cũng phải chú trọng bảo dưỡng Thận, thanh niên thận hư, đến trung niên về sau, tất cả triệu chứng đều đã đến。 Tính tri thức giáo dục càng cởi mở, bệnh hại của thanh niên càng nhiều, nguyên nhân là thận hư, cần phải phải bảo trọng。

Về Địa Chi một bộ đồ vật này, nếu như chỉ nghiên cứu tư tưởng học thuật của 《Chu Dịch》 và nguyên lý nguyên tắc lớn, thì không cần phải nghiên cứu Ngũ hành và Can Chi。 Nếu như muốn hiểu rõ Trung Quốc vài ngàn năm đến nay, quan hệ của 《Kinh DịchBát Quái dùng ở các phương diện Thiên văn、 Địa Lý, tựu cần phải trước tiên hiểu rõ Ngũ hành Can Chi rồi。 Có một vị giáo sư học khoa học, từ nước ngoài viết tin đến hỏi một số vấn đề, bởi vì nước ngoài gần nhất đã ra một cuốn sách, cho rằng Trái đất Nam Bắc Cực có một cái động, trong động có một cái thế giới khác, đều còn có loài người, đĩa bay cũng là từ trung tâm Trái đất ra đến đó v.v。 Đây đều là vấn đề cùng 《Kinh Dịch》 có liên quan。 Tôi hồi âm báo cho anh ấy, đây không hề hiếm lạ, người Trung Quốc sớm từng nói Trái đất là hoạt động đó, đến nỗi trung tâm Trái đất có loài người hay không, còn là một cái thuyết pháp khác。 Về vấn đề ở giữa Nam Bắc Cực của Trái đất là tương thông, Đạo gia tại vài ngàn năm trước tựu nói như vậy rồi, mà còn nói các nơi bên trong Trái đất đều là tương thông đó, những câu này đều có sách làm dẫn chứng, bất quá mọi người chúng ta không có đi chú ý nó mà thôi。 Cũng có người nói mặt sau lăng mộ của Hoàng Đế có một cái động, có thể thông đến Nam Kinh。 Nhưng mà tại phương Tây có một phái khác, nói loài người đều là từ bên ngoài bầu trời cao đến đó, Trung Quốc cổ đại cũng có một thuyết pháp này, cũng là Đạo gia nói đó, nghe nói Bàn Cổ lão vương cũng là trên trời giáng xuống đến đó, Phật gia cũng là như vậy nói, những học thuyết này của Đạo gia, đều có thể tại trong 《Đạo Tàng》 tìm đến。

Bên trên câu chuyện này, là muốn thuyết minh tư tưởng của Ngũ hành Can Chi, cùng ban đầu Thiên văn、 Trái đất vật lý có quan hệ tuyệt đối, chỉ đáng tiếc về sau chỉ dùng tại bên trên bói toán toán mệnh, đây chỉ trách văn hóa của chúng ta nguyên do trong quá khứ không hướng phương diện khoa học phát triển。

Mặt trước đã giới thiệu Thiên Can, hiện tại lại giới thiệu Địa Chi。 Bên trên từng nói Địa Chi là Tý、 Sửu、 Dần、 Mão、 Thìn、 Tị、 Ngọ、 Mùi、 Thân、 Dậu、 Tuất、 Hợi, mười hai cái Địa Chi。 Thế nào gọi là Địa Chi? Chúng ta lấy quan niệm hiện đại đến nói, là bản thân Trái đất, tại trong Thái Dương hệ vận hành, cùng giữa mỗi cái tinh cầu lẫn nhau sản sinh quan hệ quấy nhiễu, trong vô hình có một cái lực lượng tại chống đỡ theo, điều này nói là Địa Chi。

Chúng ta hiểu Thiên Can có mười cái, tựu là lưỡng cực chi đạo của Ngũ hành, cũng tức là Âm Dương biến hóa của Ngũ hành。 Mà Chi là Lục vị số, là Âm Dương chi đạo sản sinh biến hóa mà thành 12 vị。 Đến nỗi nguồn gốc của những tên gọi này, cùng 《Chu Dịch》 không có bao nhiêu quan hệ, là trong truyền thống văn hóa Trung Quốc một loại hệ thống học thuyết khác, điều này tại mặt trước cũng đã từng đề cập đến qua。 Đến nỗi định nghĩa của mỗi một cái chữ Thiên Can Địa Chi, có rất nhiều loại giải thích, rốt cuộc một loại giải thích nào hoàn toàn chuẩn xác, rất khó hạ định luận; như Tý là hiện tượng của vạn vật phát sinh、 Sửu là ý nghĩa của đầu mối then chốt v.v, mỗi người mỗi giải thích, tạm thời không đi thảo luận nó。 Ngoài ra lấy lịch sử văn hóa Trung Quốc phát triển, đứng tại quan điểm của triết học quân sự xem Giáp、 Ất、 Bính、 Đinh、 Mậu、 Kỷ、 Canh、 Tân、 Nhâm、 Quý v.v Thập Thiên Can, cũng có một số giải thích là đại biểu cho cổ đại 10 loại vũ khí , như “Giáp” là một loại lợi khí gắn trên cọc gỗ、 “Ất” là một thanh đao v.v, chưa kết luận được, rốt cuộc một loại thuyết pháp nào đúng, không có định luận。

12 Địa Chi Cùng 12 Cung Hoàng Đạo

Địa Chi có 12 vị, đại biểu mười hai tháng。 Trên thực tế Địa Chi là cái gì vậy? Là đại danh trên 12 cung Hoàng Đạo của Thiên văn。 Cái gọi là “Cung”, tựu là vị trí; cái gọi là “Hoàng Đạo”, tựu là Thái Dương từ bên Đông lên, hướng phương Tây lạc hạ, ‘quấn thành một vòng, tên là Hoàng Đạo diện。 Loại Hoàng Đạo diện này, mỗi một tháng đều khác nhau。 Như chúng ta buổi tối xem Thiên tượng, mỗi một cái tinh tọa, từ phương Đông ra đến, tổng cộng có 28 Tinh tú (Tri thức của Thiên văn, tại Thời Thượng cổ Trung Quốc phát đạt nhất), mà Thập nhị bát tú này, tại trên Hoàng Đạo diện, vị trí mỗi tháng cũng đều bất đồng; thế là căn cứ cái hiện tượng này, trừu tượng mà quy nạp ra mười hai cái vị trí, dùng mười hai chữ đến biểu thị。 Trên thực tế đây là hiện tượng của Thiên văn, biến thành là học vấn trừu tượng, cấu đã thành tác dụng vị trí của toán mệnh hậu thế。

Một bộ học vấn này, hiện tại xem đến giống như rất đơn giản, nhưng chân chính dụng tâm tìm tòi nghiên cứu, học vấn trong đó rất nhiều, cũng đủ thấy văn hóa trí tuệ、 khoa học triết học của lão tổ tông thời Thượng cổ chúng ta, đều phát đạt đến điểm cao nhất; bởi vì khoa học chữ số quá lớn, rất phức tạp, trí tuệ của người thông thường không có Thiên tài dung nạp như vậy。 Thế là đem nó đơn giản hóa rồi, dùng Ngũ hành、 Thiên Can、 Địa Chi đến đại biểu, khiến mọi người đều có thể hiểu, chỉ có văn hóa đã đến nơi cao nhất, mới có thể biến thành đơn giản hóa nhất。 Nhưng mà tệ nạn của nó, là hậu nhân chỉ biết dùng, biết nó nhưng mà không biết nguyên cớ của nó rồi。

Cái danh từ trừu tượng này, bên trong thực tế là có đồ vật đó, học vấn bao quát rất lớn; đáng tiếc hậu thế chúng ta chỉ đem nó dùng tại xem tướng、 toán mệnh、 bói toán một phương diện này đi rồi。

12 Địa Chi Cùng Mệnh Lý

Đem bộ pháp tắc lớn này, diễn biến thành học vấn nhỏ, dùng tại trên toán mệnh、 xem tướng bói toán, ngay cả dùng đến trên điều tra phán án mạng, trong 《Tẩy Oan Lục》 tựu có học vấn của phương diện này。 Trên Địa Chi có Lục Xung, cũng có thể từ trong vòng tròn mặt trước xem, phàm là vị trí đối diện đều là xung, như Tý cùng Ngọ、 Sửu cùng Mùi、 Dần cùng Thân、 Mão cùng Dậu、 Thìn cùng Tuất、 Tị cùng Hợi đều là tương xung đó。 Xung không nhất định là không tốt, có là không xung không được。 Đối lập nhau tựu là xung, đây cũng là đạo lý Quẻ Thác của 《Kinh Dịch》。 Trên thực tế cái gọi là Xung, là Thập nhị bát tú tại trên Hoàng Đạo diện, đi đến Thái Dương góc độ này đến, gọi là Xung; cùng phương hướng của Thái Dương tương phản, đây tựu gọi là Hợp, từ trên hình tròn xem, lập trường giống nhau tựu là Hợp (như Tý cùng Sửu hợp、 Dần cùng Hợi hợp、 Mão cùng Tuất hợp、 Thìn cùng Tây hợp、 Tị cùng Thân hợp、 Ngọ là Nhật、 Mùi là Nguyệt Lục hợp, tại trong Thập Nhị Địa Chi, còn có nhị hợp、 Tam hợp, v.v)。 Ở đây chúng ta còn phải có một cái quan niệm, Thập nhị bát tú tại trên vị trí của 12 cung Hoàng Đạo, cùng triền độ của Thái Dương đối lập tựu biến thành xung, xung không hề là khó nghe mà nói, mà là biểu thị có ngăn trở。

Lại đem Thiên Can Địa Chi phối hợp thành một biểu đồ, cũng tức cái gọi là Nạp Giáp。

Phương Vị

Bốn Mùa Ngũ Hành Thiên Can Địa Chi Ngũ Sắc Ngũ Thanh Ngũ Âm Ngũ Khí Ngũ Khiếu Ngũ Chí Biến
động
Ngũ Tàng Ngũ Mạch Ngũ Xú Ngũ Vị Ngũ Dịch Ngũ Hợp Ngũ Vinh Ngũ Tạng

Lục Phủ

Dương

Âm Dương

Âm

Đông

Xuân Mộc Giáp Ất Dần Mão Thanh Giác Phong Mắt Nộ Ngữ Hồn Huyền Tao Toan Khấp Cân Trảo Can Đảm
Nam Hạ Hỏa Bính Đinh Tị Ngọ Xích Tiếu Chinh Thử Lưỡi Hỷ Y Thần Hồng Tiêu Khổ Hãn Mạch Sắc Tâm Tiểu Tràng
Trung Trường hạ Thổ Mậu Kỷ Thìn Sửu
Tuất Mùi
Hoàng Ca Cung Thấp Miệng Thôn Ý Noãn Hương Cam Diên Nhục Thần Tỳ Vị
Tây Thu Kim Canh Tân Thân Dậu Bạch Khốc Thương Táo Mũi Bi Khái Phách Mao Tinh Tân Di Mao Phế Đại Tràng
Bắc Đông Thủy Nhâm Quý Hợi Hặc Thân Nhiệt Tai Khủng Khiếm Chí Thạch Hủ Hàm Thóa Cốt Phát

Thận

Tam Tiêu Bàng Quang

(Chú ý: trên biểu đồ tại trong sách gốc là một tấm hình, vì thuận tiện ghi nhớ chúng ta chỉnh lý là bảng)

Giới Thiệu Về 12 Địa Chi

12 Địa Chi, còn gọi là Thập Nhị Chi, tức gọi chung là: Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Thái Tuế tại Tý viết Khốn Đôn, tại Sửu viết Xích Phấn Nhược, tại Dần viết Nhiếp Đề Cách, tại Mão viết Đơn Yên, tại Thìn viết Chấp Từ, tại Tị viết Đại Hoang Lạc, tại Ngọ viết Đạo Tang, tại Mùi viết Hiệp Hợp, tại Thân viết Than Than, tại Dậu viết Tác Ngạc, tại Tuất viết Yêm Mậu, tại Hợi viết Đại Uyên Hiến. Thiên Can Địa Chi tổ thành hình đã thành truyền thống lịch pháp biên niên sử của Trung Quốc cổ đại. Trung Quốc Cổ Đại đem nó cùng Thiên Can tương phối, dùng đến biểu thị thứ tự của Năm, Tháng, Ngày, Giờ.

Thời đại Thiên Hoàng viễn cổ, đã có hình thức ban đầu của lịch pháp Can Chi cùng Tuế Thời, “Can Chi” cổ tên là “Tuế” (Nhiếp Đề). Thời đại nhà Minh sử học gia nổi tiếng  Vạn Dân Anh căn cứ văn hiến văn ghi chép Trung Quốc cổ đại xác định thời đại Thiên Hoàng Thị đã phát minh ra lịch Can Chi, tại trong trứ tác <Tam Mệnh Thông Hội> có ghi chép kỹ càng. Phát minh Thiên Can Địa Chi này ảnh hưởng sâu sắc, hậu thế dùng đến lịch pháp, thuật số (Tử Vi Đẩu Số, Tứ Trụ, Phong Thủy…), tính toán, mệnh danh v.v các phương diện (Thời Bắc Tống quan phương chính sử biên soạn trứ tác <Tư Trì Thông Giám> liền lấy bộ thuật ngữ Can Chi này biên niên sử).

12 Địa Chi ứng với 12 Con GiápHình ảnh 12 Địa Chi ứng với 12 Con Giáp

Hàm Nghĩa Của 12 Địa Chi

Giải thích về 12 Địa Chi

Địa Chi, cũng là văn tự mà dân tộc Trung Hoa dùng đến ghi chép thời gian, gọi là 12 Địa Chi. “Can Chi” cổ tên là “Tuế” (Nhiếp Đề), “Tuế” lấy Lục Thập Giáp Tý (Can Chi Kỷ Niên Pháp) làm chu kỳ vận chuyển. <Dịch Hệ Từ> quanh năm phát triển mà thành Tuế. <Tam Hoàng Bản Ký>: “Thiên Hoàng Thị, bản đức vương, Tuế khởi Nhiếp Đề>.

12 Địa Chi phân biệt là:

Tý, Sửu, Dần, Mão, Thìn, Tị, Ngọ, Mùi, Thân, Dậu, Tuất, Hợi.

Âm Dương của 12 Địa Chi

Căn cứ học thuyết Âm Dương, phân ra Âm Chi cùng Dương Chi:

Dương Chi: Tý, Dần, Thìn, Ngọ, Thân, Tuất;

Âm Chi: Sửu, Mão, Tị, Mùi, Dậu, Hợi.

Ý nghĩa của 12 Địa Chi

Tý ý nghĩa là Ty, chỉ vạn vật dưới manh nha đã động dương khí.

Sửu là Nựu, Dương khí tại bên trên chưa hạ.

Dần là Di, ý nghĩa là dẫn, chỉ vạn vật mới sinh vậy.

Mão là Mậu, nói vạn vật tươi tốt.

Thìn là ý nghĩa của Chấn, vật trải qua chấn động mà lớn lên.

Tị là khởi, chỉ dương khí đã thịnh.

Ngọ ý nghĩa là Ngỗ, chỉ vạn vật cành nhánh bao phủ dày đặc.

Mùi là Vị, vạn vật đều thành có mùi vị.

Thân ý nghĩa là Thân (身), chỉ thân thể của vạn vật đều đã thành tựu.

Dậu ý nghĩa là Lão, vạn vật đã già.

Tuất ý nghĩa là Diệt, vạn vận tận diệt.

Hợi ý nghĩa là Hạch, vạn vật thu tàng.

Âm Đọc của 12 Địa Chi theo tiếng Trung

Tý (zǐ), Sửu (chǒu), Dần (yín), Mão (mǎo), Thìn (chén), Tị (sì), Ngọ (wǔ), Mùi (wèi), Thân (shēn), Dậu (yǒu), Tuất (xū), Hợi (hài).

Đại biếu thời gian của 12 Địa Chi

[Giờ Tý] nửa đêm, còn gọi là Tý Dạ, Trung Dạ: thời thần đầu tiên của 12 thời thần. (Từ 23h đến 01h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Sửu] gà gáy, còn gọi là Hoang Kê: thời thần thứ hai của 12 thời thần. (Từ 01h đến 03h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Dần] rạng sáng, còn gọi là Lê Minh, Tảo Thần: là thời gian giữa ngày và đêm giao nhau (Từ 03h đến 05h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Mão] Nhật Xuất, còn gọi là Nhật Thủy, Phá Hiểu, Húc Nhật: chỉ Thái Dương vừa mới lộ mặt, từ từ bắt đầu lên (Từ 05h đến 07h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Thìn] Thực Thời, còn gọi là Tảo Thực Đẳng: thời gian nhân dân Trung Quốc cổ đại ăn sáng cũng liền là thời gian ăn cơm sớm (Từ 07h đến 09h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Tị] Ngung Trung, còn gọi là Nhật Ngu: thời gian lâm đến gần giữa ngọ gọi là Ngung Trung (Từ 09h đến 11h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Ngọ] Nhật Trung, còn gọi là Nhật Chính, Trung Ngọ: (Từ 11h đến 13h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Mùi] Nhật Trung, còn gọi là Nhật Xế, Nhật Ánh: Thái Dương nghiêng về phía Tây là Nhật Trật (Từ 13h đến 15h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Thân] Bộ Thời, còn gọi là Nhật Phô, Tịch Thực: (Từ 15h đến 17h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Dậu] Nhật Nhập, còn gọi là Nhật Lạc, Nhật Trầm, Bàng Vãn: ý là thời gian mặt trời xuống núi (Từ 17h đến 19h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Tuất] Hoàng Hôn, còn gọi là Nhật Tịch, Nhật Mộ, Nhật Vãn: lúc này mặt trời đã xuống núi, trời sắp tối đen. Thiên Địa hôn hoàng, vạn vật mịt mù, nên gọi Hoàng Hôn (Từ 19h đến 21h giờ Bắc Kinh).

[Giờ Hợi] Nhân Định, còn gọi là Định Hôn: lúc này sắc đêm đã đậm, mọi người đã dừng hoạt động, lên giường đi ngủ rồi. Nhân Định cũng liền là Nhân Tĩnh (Từ 21h đến 23h giờ Bắc Kinh).

Nguyễn Việt Kiên
Follow me
Latest posts by Nguyễn Việt Kiên (see all)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*