Bốc Phệ Cách Ngôn: THẬP BÁT LUẬN P1

Tham gia Khóa Học Kinh Dịch – Lục Hào Dự Trắc Học để có thể dự đoán nhiều việc trong cuộc sống!

Thứ nhất: Phân loại dụng thần
– Phàm xem ông bà, cha mẹ, bậc thầy, gia chủ, chú bác, cô dì, cùng bậc với cha mẹ ta như thân hữu của cha mẹ, thành quách, nhà cửa, xe thuyền, áo quần, đồ dùng trời mưa ( vũ cụ ), cầu mưa, khăn vải, mền, đồ vật, tấu biểu, văn chương, nhà quán, đều lấy hào phụ mẫu làm dụng thần.
– Phàm xem công danh, quan phủ, sấm chớp, quỷ thần, chồng, anh em chồng, ngang lứa với chồng, bằng hữu chồng, loạn thần, đạo tặc, tà gian, bệnh chứng, lo âu, đầu của thây người, gió chướng đều lấy hào quan làm dụng thần.
– Phàm xem cha mẹ, anh em chị em vợ, anh em kết nghĩa, bạn tri giao, bạn cùng làm quan, đều dùng huynh đệ làm dụng thần
– Phàm xem chị dâu, em dâu, thê thiếp cùng bạn bè với vợ, vợ bạn, tì bộc, vật giá, châu báu, vàng bạc, kho, tiền, lương, vật, loại, lại hỏi thiên thời, tạnh, sáng, đều dùng hào thê tài làm dụng thần.
– Phàm xem con trai, con gái, con rể, cháu chắt, môn sinh, trung thần, lương tướng, cây thuốc, tăng đạo, lục súc, cầm điệu, gió thuận, giải sầu, tránh họa, hỏi thiên thời nhật nguyệt, tinh đấu đều dùng hào tử tôn làm dụng thần.

Thứ hai: Luận về cách dùng thế ứng làm dụng thần
– Hai hào Thế và Ứng ở trong quẻ, thì Thế là dùng cho mình, Ứng dùng cho kẻ khác. Thế Ứng tương sinh, tương hợp là khách chủ hợp nhau, Thế Ứng tương khắc tương xung thì hai bên khó hòa.
– Khi xem cho mình bệnh tật hoặc hỏi số thọ, hoặc hỏi xuất hành tốt xấu, ích lợi hoặc tổn hại cho mình thì dùng Thế hào làm dụng thần.
– Phàm xem cho người mà chẳng biết xưng hô ra sao, chưa từng thâm giao, cửu lưu thuật sĩ, dịch quốc hoặc xem vùng nào, núi nào, chùa nào, tháp nào, các loại đó đều dùng Ứng hào làm dụng thần. Ví như xem cho mình có vùng đất nào để chôn không, hỏi táng như vậy có ích lợi cho gia đình chăng, thì dùng Ứng chỉ cho huyệt, Thế chỉ gia đinh vậy.

Thứ ba: hỏi đáp về dụng thần
– Có người hỏi: Nô bộc xem cho chủ, lấy hào phụ mẫu làm dụng thần, chủ nhân xem cho đầy tớ, sao chẳng dùng hào tử tôn làm dụng thần?
Đáp rằng: nhất thiết những người nuôi dưỡng, giúp đỡ che chở cho ta, thì dùng hào phụ mẫu là dụng thần, tức như: thành quách, nhà cửa, xe thuyền, y phụ, … vậy. Vàng bạc, thập vật, tì bộc là những vật để dùng sử dụng vì vậy dùng tài hào làm dụng thần.
– Lại hỏi: Xem cho vợ của anh em, chị em vợ dùng tài hào làm dụng thần mà xem anh em chồng thì lấy hào quan làm dụng thần là vì sao ?
Đáp rằng: vợ của anh em, chị em của vợ và vợ là đồng lứa, bọn với nhau. Còn đồng lứa với chồng mà vợ xem cho chồng lấy quan hào làm dụng thần, tất phải dùng quan hào vậy.
– Hỏi: sách xưa đều nói: huynh – đệ là phong vân, nay dùng hào quan – quỷ làm nghịch phong, hào tử – tôn làm thuận phong là vì sao?
Đáp rằng: Quí nhân dùng quan làm quan tinh, thứ dân dùng quỷ làm họa hại. Quý nhân dùng tử tôn làm ác sát, thứ dân dùng tử tôn làm phúc thần. Quan là sao cầu phúc, quỷ là sao lo âu, trở trệ hoặc như mưa gió ngày này qua ngày khác, hoặc gặp nghịch phong, tất bệnh truyền nhiễm, quan ty nhiễu hại, đạo tặc lo lắng thì phúc thần có thể chế, quan quỷ có thể giải ưu sầu cho nên dùng vậy.

Thứ tư: Luận về Nguyên thần, Cừu thần, Kỵ thần
– Khi xem quẻ cần biết Nguyên thần. Trước hết xem hào nào dụng thần, hào sinh dụng thần là nguyên thần vậy. Như dụng thần bị tuần không, nguyệt phá, suy, nhược hoặc phục tàng không hiện, được nguyên thần động sinh hoặc nhật thần, nguyệt kiến làm nguyên thần sinh dụng, tức đưa dụng hào ra khỏi tuần, khỏi phá được mùa, ngày thì sở đầu sẽ đạt.
– Như dụng thần vượng, tướng, nguyên thần hưu tù bất động hoặc động mà biến mộ, biến tuyệt, biến khắc, biến phá, biến thoái hoặc bị nhật thần, nguyệt kiến khắc chế đều không thể sinh dụng, thì căn rễ dụng thần bị thương thì chẳng những vô ích mà phản lại bị hao tổn vậy.
– Phàm xem quẻ cần biết kỵ thần, trước xem dụng thần là hào nào, hào nào khắc dụng thần là kỵ thần. Nếu kỵ thần động mà khắc dụng hào hiện không có tuần không tất bị thụ khắc.
Nếu trong quẻ động xuất một hào nguyên thần sịnh dụng tất kỵ thần, ngược lại sinh nguyên thần tức gọi là tham sinh vong khắc, tất gốc rễ của dụng thần vững chắc, thì cát lại càng tăng thêm.
Như kỵ thần cho phát động một mình mà dụng thần bị tuần không vị chi tránh hung, nếu được nguyệt kiến nhật thần sinh dụng vị chi được cứu. Cùng loại như vậy là điềm tốt chẳng nghi ngại gì hết.
– Như kỵ thần thì biến đầu hồi khắc, hoặc bị nhật thần nguyệt kiến xung khắc, hoặc động hào chế kỵ thần, vị chi giặc muốn hại ta mà trước tiên giặc bị hại vậy, ta chẳng bị thương gì cả.
Như nhật thần, nguyệt kiến sinh phù kị thần, hoặc kị thần chồng chất, khắc dụng tất khiến dụng thần tránh không, phục tuy đến lúc xuất lộ lại bị hại khó tránh được tai họa.
– Phàm xem quẻ cần tất cừu thần, phát động tất nguyên thần bị thương dụng thần không có gốc kỵ thần càng tăng sức, họa càng gia tăng.

Thứ năm: Phi thần chính diện
Phi thần có 6 loại :
– Loại 1 : Phàm quẻ có phục thần, thì hào phục thần phục tại phi thần vậy
– Loại 2 : Lục thú 5
– Loại 3 : 5 loại nhập vào bản cung lấy tài, quan, huynh, phụ, tử
– Loại 4 : Trong một quẻ hai hào trên dưới, nội quẻ ngoại tĩnh ngoại hưng thì phi ở trong
– Loại 5 : nếu nội tĩnh nội hưng thì phi ngoại
– Loại 6 : Nội ngoại đều hưng thì phi khế

Thứ sáu: Phục thần chính truyền
– Trong một quẻ khuyết dụng thần thì xem dụng thần phục ở hào nào, khi dụng thần đã hiện thì tuần không nguyệt phá động tĩnh, sinh khắc hợp xung đều dựa đó phát động, đó là có bệnh tức có thuốc vậy. Cho nên gặp không thì cần đợi ngày ( trị nhật ), gặp phá thì cần điện lấp, phục thì đợi xuất, xung thì đợi hợp, hợp thì đợi xung ấy là vật cùng tất biến, vật đầy tức đổ. Mếu coi phá, không là vô dụng, lấy quẻ càn là phục của khôn thì lục thân đều đủ cả, lại tách ra quẻ bỉ làm phục, mọi hào đều có phục thì là chẳng có bệnh mà mất thuốc chữa, há truyền sai lầm vậy. Với học giả tự học, nay chỉ trình bày một lý không đổi, để học giả thăng tiến.

– Các quẻ càn, khôn, cấn, đoài, khảm, ly, chấn, tốn ở đầu của tám cung tên gọi bát thuần, các hào toàn là kim, mộc, thuỷ, hỏa, thổ mà tượng là quan, phụ, tài, tử, huynh, mỗi quẻ trong tám cung đều thiếu một tức căn cứ vào quẻ đầu để tìm phục? Vì như quẻ cấn, độn không có tài hào thì hướng vào quẻ càn ở hào dần mộc, các quẻ độn, bỉ, tấn, quan, thiếu thủy thì dùng hào tí thuỷ ở quẻ càn đến phục tại hào sơ, quan, bác thiếu kim thì dùng thân kim ở quẻ càn để phục. Nay chỉ dùng quẻ càn làm qui tắc, các quẻ trong cung khác cũng căn cứ vào quẻ đầu của cung để tìm phục thần.

Thứ bảy: Bình luận về lục thú
– Thanh long rất vui vẻ và nhân từ, bám vào kỵ thần thì mưu sự chẳng lợi, bạch hổ xung mãng xà hiếu sát, sinh dụng thì mọi sự đều tốt, chu tước khắc thân khẩu, thiệt thị phi thường có, nếu sinh dụng thì văn thư, tin tức thường có hồi âm, câu trần thuộc thổ gặp không, vào ruộng vường không được mùa, mạnh mẽ khắc thế bị công sai bắt đi. Đằng xà quái dị làm kinh sợ, huyền vũ tư tình đạo tặc, bạch hổ là huyết thần về sinh sản cho nên phát động. Ngọ cung chu tước hỏa sợ gì hỏa tai. Đằng xà mộc quỷ lấn thân sợ tự ải, khó tránh.
– Huyền vũ ở quan sinh thế tĩnh, chơi tiểu nhân chở lo liên can, thế khắc thanh long tĩnh, tuần bắt ở hí trường, tiểu điếm. Thổ quỷ động có câu trần luận cầu đảo. Hỏi bệnh thì là phù thủng nổi vàng ( hoàng phù ). Đó là lược thử lục thần ở dụng. Chớ có suy tôn lục thú mà khi gặp cát thần mà quanh co nói rằng : “ cát ở hung tú thì mọi việc đều hung “.

Thứ tám: LUẬN VỀ TỨ SINH TRỤC VỊ
( Vị trí lần lược của tứ sinh )
– Hỏa sinh tại dần – Kim sinh tài tỵ – Thủy sinh tại thân
– Mộc sinh tại hợi
– Hỏa khố ở tuất – tuyệt ở hợi
– Kim khố ở sửu – tuyệt ở dần
– Thuỷ khố ở thìn – tuyệt ở tỵ
– Mộc khố ở mùi – tuyệt ở thân
Đó là cách an trường sinh, mộ, tuyệt, mọi quẻ đều dùng. Mọi hào nên xét trường sinh, mộ, tuyệt, ngoài ra chỉ động những hào khác như :
– Hỏa mộc-dục ở mão là tương sinh – Quan đới ở thìn, suy ở mùi, dưỡng ở sửu là tiết khí.
– Tỵ hỏa ở lâm quan ở tỵ là phục ngâm
Ngọ hỏa ở lâm quan ở tỵ là thoái thần
– Tỵ hỏa đế vượng ở ngọ là tiến thần
– Ngọ hỏa đế vượng ở ngọ là phục ngâm
– Ngọ hỏa suy ở mùi là tương hợp bệnh ở thân
– Tỵ ngọ hỏa tử ở dậu là cừu thần
– Tỵ hỏa bệnh ở thân là tương hợp. Thai ở tí là tương khắc. Ngọ hỏa thai ở tí là khắc xung là phản ngâm. Do đó mà xem những dư thần này chẳng quan trọng đó.

Thứ chín: LUẬN VỀ NGUYỆT PHÁ
Phàm trong quẻ, nguyệt phá là liên hệ của sự xuất hiện khác.
Khi động cũng có thể sinh khắc hào khác, khi biến cũng có thể sinh khắc hào gốc. Trước mắt tuy phá mà ra khỏi tháng thì không phá vậy. Ngày nay tuy phá nhưng ngày kia không phá. Nguyệt phá rất thích gặp hợp, điền lập. Xa thì ứng ngày tháng, gần thì ứng ngày giờ.
Như phá mà an tĩnh mà lại gặp tuần không thì suy nhược. Nếu gặp động hào đủ nhật thần, nguyệt kiến khắc hại, loại nguyệt phá này mới thực phá cuối cùng mới là phá vậy.

Nguyễn Việt Kiên
Follow me
Latest posts by Nguyễn Việt Kiên (see all)

Be the first to comment

Leave a Reply

Your email address will not be published.


*